Việt Nam ta tự hào có 54 dân tộc anh em gắn bó chung một dòng máu Lạc Hồng cùng nhau sinh sống ở mảnh đất hình chữ S. Tất cả đã cùng trải qua nhiều giai đoạn lịch sử chống giặc cứu nước, xây dựng nên một quốc gia ngày càng phát triển như hiện nay. Bài viết hôm nay Stardaily mang đến sẽ giúp bạn có thêm kiến thức, bổ sung thêm thông tin về tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam ta để từ đó hiểu hơn về đất nước và dân tộc mình.

Bạn đang xem: Hình ảnh các dân tộc việt nam


Chi tiết tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam

Sau đây sẽ là thông tin chi tiết về tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam đã được chúng tôi tổng hợp được để gửi đến các bạn:

1. Dân tộc Kinh

Cái tên đầu tiên trong bài viết tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam hôm nay là dân tộc Kinh. Dân tộc này hiện đang chiếm đến 85% dân số nước ta. Là dân tộc sinh sống chủ yếu ở các miền đồng bằng, gắn liền với nông nghiệp và nghề trồng lúa nước từ lâu đời.

Trong các gia đình người dân tộc Kinh thì trụ cột, chủ của gia đình chính là người chồng. Con cái sau khi được sinh ra sẽ theo họ của người cha. Người con trai đầu trong nhà sau này sẽ là người có trách nhiệm thờ phụng ba mẹ, ông bà đã khuất cũng như quán xuyến các việc trong gia đình.

Tùy thuộc theo từng vùng khác nhau mà người Kinh cũng sẽ có nhiều nét văn hóa, trang phục mang đậm chất riêng của nơi đó như áo tứ thân ở miền Bắc, áo bà ba ở Nam bộ,..

Dân số: 82.085.984 người

*

2. Dân tộc Tày

Người Tày sinh sống chủ yếu ở khu vực trung du miền núi phía Bắc của nước ta, đặc biệt là ở Bản Hồ, Thanh Phú. Đây là dân tộc có dân số đông thứ 2 của dân tộc Việt Nam. Nổi bật của người Tày chính là nhiều tục lệ, nét văn hóa độc đáo phải kể đến như tục kết hôn cùng dòng họ, các điệu ca dao gieo duyên mỗi dịp lễ hội,..

Dân số: 1.845.492 người

*

3. Dân tộc Thái

Người dân tộc Thái là cái tên tiếp theo mà chúng tôi muốn nhắc đến trong bài viết tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam. Dân tộc này thường xuyên sinh sống chủ yếu ở các khu vực những tỉnh phía Bắc nước ta như Lai Châu, Nghệ An, Sơn La, Hòa Bình. Dân tộc Thái còn nổi tiếng với những điệu múa xòe, múa sạp uyển chuyển, hấn dẫn. Hay những món ăn với các cách chế biến độc lạ như: măng chua, chấm chéo, cá nước pỉnh pộp,..

Dân số: 1.820.950 người

*

4. Dân tộc Dao

Dân tộc Dao có nhiều nhóm nhỏ khác nhau và mỗi nhóm lại có cho mình nhiều nét đặc trưng riêng biệt: Dao Quần Trắng, Dao Đỏ, Dao Lô Gang,.. Người Dao có rất nhiều kiến thức về y học dân gian khi sống ở những khu vực núi rừng, họ có thể chữa trị được nhiều bệnh lý khác nhau nhờ vào những cây thuốc mọc ở trong rừng. Có rất nhiều bài thuốc hay đã được truyền lại đến tận ngày nay để chữa nhiều loại bệnh đau nhức xương khớp, ngứa, đau đường ruột, lở loét,..

Dân số: 891.151 người

*

5. Dân tộc Hmong (H’mông)

Người dân tộc Hmong sống nhiều nhất ở các tỉnh thuộc khu vực vùng cao phía Bắc nước ta như Hà Giang, Tuyên Quang, Sơn La, Yên Bái, Nghệ An, Cao Bằng,.. Đặc biệt là ở Lai Châu. Đây là dân tộc có tín ngưỡng thờ Đa Thần và có tục bắt vợ cực kỳ nổi tiếng. Một số lễ hội đặc trưng phải kể đến của người dân tộc Hmong chính là: lễ gầu tào, lễ ngô mới, lễ cúng thần rừng, lễ nào sông,…

Khi đến đây bạn nhất định phải thử qua nhiều đặc sản nối tiếng của người Hmong như: thắng cố, cơm lam, rượu táo mèo, mèn mén, rượu ngô Bắc Hà..

Dân số: 1.393.547 người

*

6. Dân tộc Khmer

Người Khmer hiện đang sống rải rác tại khắp các tỉnh thành từ Tây Bắc, Tây Nguyên, chiếm phần lớn là ở các vùng Nam Bộ nước ta. Là dân tộc theo đạo Phật nên ở những nơi người Khmer luôn xuất hiện rraats nhiều ngôi chùa lớn nhỏ được mọc lên sở hữu cho mình nhiều lối kiến trúc độc đáo đẹp mắt và dần trở thành các di sản đặc sắc của dân tộc này. Có thể nêu tên như là: chùa Dơi, chùa Hang, chùa Mẹt,..

Dân số: 1.319.652 người

*

7. Dân tộc Nùng

Người Nùng có một kho tàng văn hóa cực kỳ đặc sắc với rất nhiều làn điệu dân ca, lễ hội đặc sắc. Trong gia đình thì người dân tộc Nùng sẽ dựa vào độ tuổi để xác định cách xưng hô chứ không dựa vào vai vế. Người dân tộc này sống dựa vào nghề trồng trọt nương rẫy là chính, nổi bật chính là trồng ngô ở các sườn đồi. Ngoài ra họ cũng biết làm gốm, làm mộc, dệt vải, đan lát hay rèn,..

Dân tộc: 1.083.298 người

*

8. Dân tộc Mường

Người dân tộc Mường sinh sống đông đúc tại những tỉnh thành thuộc miền Bắc nước ta như Thanh Hóa, Hòa Bình. Họ nổi tiếng với nhiều lễ hội đặc sắc được diễn ra hàng năm như lễ hội chùa Kè, lễ hội Khuống mùa,.. cầu mong mùa màng bội thu với rất nhiều trò chơi dân gian thú vị phải kể đến bắn nỏ, đánh cù, ném còn,..

Dân số: 1.452.059 người

*

9. Dân tộc Hoa

Tiếp theo trong bài viết tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam chính là dân tộc Hoa. Họ là dân tộc có tập tục sinh sống trong những gia đình lớn từ 4 – 5 đời quay quần bên nhau. Hôn nhân của các thành viên đều sẽ do gia đình quyết định. Họ có rất nhiều nét văn hóa đặc trưng riêng nổi bật cho mình như ca hát, đánh cờ, múa sư tử, múa quyền,.. Cũng có hệ thống dụng cụ âm thanh để chơi nhạc nổi tiếng như đàn tỳ bà, sáo, nhị, não bạt,..

Dân số: 749.466 người

*

10. Dân tộc Gia Rai

Người dân tộc Gia Rai sinh sống chủ yếu ở khu vực Tây Nguyên, họ sinh sống trong những ngôi nhà Rông và có cho mình rất nhiều lễ hội đặc sắc, phải kể đến như lễ cúng nhà Rông mới, lễ cầu mưa, lễ cầu an, lễ bỏ mã,.. Dân dộc Gia Rai nổi tiếng với rất nhiều đặc trưng như rượu cần, cây nêu, đàn T’rưng,..

Dân số: 513.930 người

*

11. Dân tộc Ê Đê

Người Ê Đê sinh sống đông đúc ở những khu vực cao nguyên như Dak Nông, Dak Lak,.. Họ sinh sống nhờ vào nghề trồng nương rẫy và luôn quây quần với nhau thành các buôn làng. Là dân tộc thuộc chế độ mẫu hệ nên người phụ nữ sẽ có một vai trò rất quan trọng trong gia đình. Họ sẽ lo toan mọi việc trong nhà từ việc đốt rẫy, gieo hạt, chăm sóc, thu hoạch lúa đến chủ động tìm kiếm bạn đời. Tài sản thừa kế cũng sẽ được truyền từ người mẹ đến cho con gái út trong nhà.

Người Ê đê nổi tiếng với cồng chiêng, những câu chuyện sử thi đặc sắc gắn liền với núi rừng đã được truyền từ nhiều đời như: Dăm Ji, Dăm Tiông, Dăm San, Sing Nhã, Khing Jú,..

Dân số: 398.671 người

*

12. Dân tộc Sán Dìu

Người dân tộc Sán Dìu tuy thuộc nhóm dân tộc ít người có nhiều họ khác nhau, nhưng khi người Sán Dìu gặp và nhận ra nhau thì họ sẽ sử dụng câu nói “San Déo loỏng si” để chào nhau như một cách thể hiện sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.

Nhắc đến ẩm thực của người Sán Dìu cũng rất cầu kỳ với đa dạng các loại gia vị được sử dụng trong những món ăn như là tỏi, gừng, địa liền,.. Họ luôn có tập tục khi ăn cần nấu nóng toàn bộ để có thể vừa ăn vừa thổi chứ không được ăn nguội lạnh. Những món bánh đặc trưng của người Sán Dìu như: bánh tro, bánh chưng hình ống, bánh nhân điền, bánh chưng gù,..

Dân số: 183.004 người

*

13. Dân tộc Xơ Đăng

Xơ Đăng chính là cái tên tiếp theo mà chúng tôi muốn giới thiệu trong bài viết chủ đề tổng hợp tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam hôm nay. Họ sinh sống lâu năm tại khu vực Trường Sơn, Tây Nguyên. Dù tùy theo từng nơi sinh sống, đã trải qua nhiều giai đoạn thay đổi nhưng người Xơ Đăng vẫn giữ được hoạt động sinh sống nhiều thế hệ cùng nhau trong một ngôi nhà sàn dài.

Người dân tộc này cũng có một kho tàng văn hóa rộng lớn bao gồm nhiều làn điệu dân ca, các nhạc cụ dân tộc hay những câu truyện cổ phong phú đã được truyền từ đời này sang đời khác.

Dân số: 212.277 người

*

14. Dân tộc Sán Chay

Người dân tộc Sán Chay có rất nhiều nét di sản văn hóa nổi tiếng như điệu múa Tắc Xình, lễ hội Cầu Mùa. Ở mỗi dịp lễ hội thì họ sẽ sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau (chuông, kèn, thanh la, não bạt,..) để trình diễn kèm theo các điệu múa mô tả hoạt động sinh hoạt thường ngày như múa xúc tép, múa trống, múa chim gâu,..

Trong hôn nhân của người dân tộc này đó là việc sau khi kết hôn thì cô dâu vẫn sẽ sống ở gia đình ba mẹ ruột, thỉnh thoảng mới về nhà chồng cho đến khi nào có thai mới chính thức chuyển về sinh sống tại nhà chồng.

Dân số: 201.398 người

*

15. Dân tộc Cờ Ho

Người dân tộc Cờ Ho hay còn được gọi là Cơ Ho, K’ho,.. Họ sinh sống chủ yếu ở các vùng núi cao tách biệt với con người tại những tỉnh thành phía Nam Tây Nguyên. Dân tộc này cũng có tính ngưỡng Đa Thần, thờ phụng nhiều vị thần liên quan đến thiên nhiên như thần Mặt Trời, thần Đất, thần Rừng,..

Sau khi kết hôn thì chồng sẽ về phía nhà vợ mình để ở rể, con cái sau khi sinh ra sẽ mang họ mẹ. Người dân Cờ Ho cũng có cho mình rất nhiều thơ ca trữ tình, các câu chuyện cổ tích, lễ hội lớn, đa dạng dụng cụ âm nhạc biểu diễn (kèn ống bầu, đàn ống tre, cồng kiêng,..)

Dân số: 200.800 người

*

16. Dân tộc Ba Na

Người Ba Na thường sống ở những khu vực gần với núi rừng sông suối, họ làm nghề trồng lúa nước và những ngành nghề thủ công khác (dệt, đan lát, gốm, rèn,..) để sinh sống. Người Ba Na có nền văn hóa cực kỳ đặc sắc phải kể đến như là những điệu múa dân gian, những câu truyện cổ, trường ca, các nhạc cụ dân tộc.. Họ cũng có nhiều lễ hội để cảm tạ trời đất, cầu mong mùa màng bội thu như là lễ đâm trâu, lễ tạ ơn thần lúa, lễ bỏ mả,..

Dân số: 286.910 người

*

17. Dân tộc Chăm

Tiếp theo trong danh sách tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam chính là dân tộc Chăm. Họ sinh sống chủ yếu ở những khu vực núi rừng Tây Nguyên, khu vực duyên hải miền Trung (nổi bật là Ninh Thuận, Bình Thuận). Nét văn hóa, phong tục của dân tộc Chăm mang rất nhiều dấu ấn của Hồi giáo, Bà la môn với nhiều lễ cúng thần linh, các nghi thức cưới xin,..

Người Chăm hiện nay có rất nhiều di sản văn hóa quý giá, có thể nhắc đến như là những ngôi đền thờ được làm bằng chất liệu gạch nung theo phong cách Ấn Độ vẫn còn nhiều bí ẩn về cách thức xây dựng, những tác phẩm điêu khắc tuyệt mỹ,..Những lễ hội đặc sắc của người Chăm có thể kể đến: lễ cúng nhà mới, lễ trưởng thành, lễ hội Kate, lễ Ramuwan,..

Họ cũng có rất nhiều món ăn ngon đặc trưng riêng như canh bồi, Ga Pội, Pài Pa Ghênh, bánh tổ chim, tung lò mò,..

Dân số: 178.948 người

*

18. Dân tộc Hrê

Ngoài tên gọi Hrê thì dân tộc này còn được biết đến là dân tộc Chom, Chăm rê, Kre,.. Là dân tộc sinh sống chủ yếu tại những tỉnh thành ở Tây Nguyên hay Nam Trung Bộ của nước ta. Dân tộc Hrê rất yêu thích văn hóa nghệ thuật, từ xa xưa họ đã sáng tác nên rất nhiều tác phẩm thơ ca, làn điệu dân gian với nhiều nhạc cụ độc đáo (Brook, sáo ling la, ống tiêu la lía, ching ka la, khèn ra vai,.. ) để truyền lại cho đời sau.

Những lễ hội đặc sắc của người Hrê điển hình như lễ cúng bái trong làng, lễ đâm trâu cầu mùa màng,..

Dân số: 149.460 người

*

19. Dân tộc Mnông

Người Mnông đã sinh sống rất lâu đời tại khu vực miền Trung Tây Nguyên nước ta, họ bên cạnh việc trồng nương rẫy thì còn có thể đan lát, săn bắn, làm gốm, thuần dưỡng voi rừng,.. Người dân tộc Mnông sẽ sinh sống tụ họp lại với nhau thành các uôn, bon và gần như các gia đình đều có quan hệ huyết thống với nhau. Đây cũng là một dân tộc sinh sống theo chế độ mẫu hệ, mọi sự chủ động đều thuộc về nữ giới. Tuy nhiên ở một số khu vực thì chế độ này đã dần bị tan rã.

Dân số: 127.334 người

*

20. Dân tộc Raglai

Dân tộc Raglai còn có nhiều cái tên khác như Ra Glai, Ra Giây, Rang ngok,.. Họ sinh sống chủ yếu ở tại những khu vực tỉnh Ninh Thuận, Khánh Hòa. Đây là dân tộc vẫn còn giữ lối sống theo quan niệm mẫu hệ và tục con gái bắt chồng hiện vẫn còn áp dụng. Nếu một cô gái đã để mắt đến chàng trai nhà nào thì chỉ cần nói với cha mẹ để lo lễ cưới. Con cái sau khi sinh ra sẽ mang họ mẹ, con gái út sẽ là người được hưởng gia tài và có trách nhiệm chăm sóc cha mẹ khi về già.

Dân số: 146.613 người

*

21. Dân tộc X’Tiêng

Người X’Tiêng hiện đang cư trú đông đúc nhất ở khu vực tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng và đồng thời cũng đã sinh sống xen kẽ cùng nhiều dân tộc anh em khác như Chăm, Mnông, Kinh, Khmer,.. Người dân tộc X’Tiêng rất yêu thích âm nhạc, loại nhạc cụ được họ cực kỳ yêu thích phải kể đến bộ chiêng gồm 6 cái của mình. Họ sử dụng chiêng và âm nhạc để có thể giải quyết mọi xích mích, thể hiện tình cảm của mình cho mọi người. Thông thường người dân tộc này chỉ gõ chiêng trong nhà là chính, trừ dịp lễ đâm trâu sẽ gõ chiêng tổ chức hội bên ngoài.

Dân số: 100.752 người

*

22. Dân tộc Bru Vân Kiều

Người dân tộc Bru Vân Kiều trước kia sống chủ yếu tại vùng trung Lào nhưng vì một số biến động theo dòng lịch sử và hiện đang sinh sống tại những khu vực miền núi ở các tỉnh thành như Quảng Trị, Thừa Thiên Huế,.. Người Bru Vân Kiều có rất nhiều nét văn hóa nổi tiếng độc đáo như lễ hội đập trống, các loại nhạc cụ đa dạng mang đậm bản sắc (kèn, trống, thanh la, chiêng núm, đàn pơ kua,..) và không thể thiếu những làn điệu dân ca đặc sắc mang nét đẹp của người dân tộc nơi đây.

Dân số: 94.598 người

*

23. Dân tộc Khơ Mú

Ngoài tên gọi Khơ Mú thì dân tộc này còn được biết đến với những cái tên khác như là: Xá Cẩu, Tày Hạy, Tềnh, Mứn Xen,.. Người dân Khơ Mú sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng nương rẫy như các loại lúa, sắn, ngô, khoai để làm lương thực chính. Ngoài ra họ cũng nuôi nhiều loại gia súc gia cầm nhưng chủ yếu sẽ để phục vụ cho những dịp lễ hay các ngày đón khách.

Trong hôn nhân của người dân tộc Khơ Mú khá bình đẳng, chung thủy với nhau. Sau khi kết hôn xong thì chú rể sẽ ở lại nhà vợ trong 1 năm và sau đó mới được đưa vợ về lại nhà mình. Trong quá trình ở rể nếu sinh con thì con sẽ theo họ của người mẹ, còn nếu sinh con khi đang ở nhà chồng thì sẽ mang theo họ của người cha.

Dân số: 90.612 người

*

24. Dân tộc Thổ

Người Thổ hiện sinh sống nhiều ở những khu vực phía tây của tỉnh Nghệ An, họ chuyên làm rẫy, trồng cây gai, đan lát, săn thú,.. để sinh sống. Điểm đặc biệt của người dân tộc Thổ đó là tục “ngủ mái”. Được hiểu là vào các dịp lễ hội thì những cặp đôi nam nữ có thể cùng nằm với nhau để tâm tình, chọn bạn đời. Theo tục lệ này thì bất cứ hoạt động thiếu đúng đắn sẽ không được cho phép, người Thổ cũng cực kỳ nghiêm minh trong vấn đền này.

Vào mỗi dịp lễ hội diễn ra thì các cặp đôi trai gái người dân tộc Thổ sẽ cùng nhau tham gia uống rượu cần, đối hát, ca múa dưới tiếng cồng chiêng như một tục lệ vẫn còn được gìn giữ đến ngày nay.

Dân số: 91.430 người

*

25. Dân tộc Cơ Tu

Người dân tộc Cơ Tu là cái tên tiếp theo mà chúng tôi muốn giới thiệu đến các bạn trong bài viết chia sẻ tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam hôm nay. Người Cơ Tu trước kia sinh sống chính bằng các nghề như trồng cây lương thực, đan lát, đánh bắt cá, săn bắn,. để trao đổi vật dụng cho nhau. Một năm của người Cơ Tu có rất nhiều lễ hội lớn nổi bật như lễ mừng lúa mới, lễ cúng đất, lễ đâm trâu,.. Những lúc như vậy họ sẽ sử dụng các loại nhạc cụ để nhảy múa những điệu múa truyền thống mang đậm văn hóa dân tộc mang tên Tungtung Yaya

Trước kia người Cơ Tu có các tục như xăm mặt, cưa rang, xăm mình,.. nhưng hiện nay đã dần được loại bỏ đi.

Dân số: 74.173 người

*

26. Dân tộc Tà ÔI

Người dân tộc Tà ÔI hiện sinh sống chính tại dải Trường Sơn, Việt Nam. Họ có rất nhiều tên gọi khác nhau như Ta uôih, Ta uốt. Được biết là dân tộc sinh sống khá cách biệt với môi trường bên ngoài, người Tà ÔI chủ yếu sống nhờ săn bắn, hái lượm là chính. Trước kia họ có rất nhiều nét văn hóa, thủ tục lạc hậu nhưng khi được Đảng và Nhà nước hỗ trợ, kêu gọi giúp đỡ nên dần đã hòa nhập với cộng đồng, xóa bỏ một số tập tục cũ, thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo.

Người Tà ÔI cũng có niềm tin vào các vị thần linh, theo họ vạn vật đều có những linh hồn riêng. Mỗi năm thì người dân tộc này sẽ đều tổ chức những lễ cúng để cầu thần linh phù hộ, bảo vệ, chở che cho dân làng.

Dân số: 52.356 người

*

27. Dân tộc Giẻ Triêng

Tại vùng đất Kon Tum thì người dân tộc Giẻ Triêng là một trong 6 dân tộc đã sinh sống rất lâu đời ở đây. Thường người Giẻ Triêng chọn những khu vực núi rừng hiểm trở để ở. Các loại vật dụng phổ biến của họ đó chính là công, gùi, kéo, xách, vách,.. Thường người dân tộc này sẽ dùng các loại công cụ như cuốc, rìu, nạo cỏ,.. để làm nông chứ không sử dụng nhiều đến các loại máy móc.

Trong hôn nhân của người Giẻ Triêng thì mọi quyết định của con cái đều được tôn trọng. Người Giẻ Triêng có tục lệ rất đặc biệt đó chính là khi cô gái muốn lấy chàng trai của nhà nào sẽ cần mang đến nộp 100 bó củi cho nhà trai trong lễ cưới. Sau khi kết hôn thì 2 vợ chồng sẽ ở tầm 3 – 4 năm ở nhà chồng sau đó chuyển qua nhà vợ. Luân phiên đến khi một trong 2 bên có cha mẹ qua đời thì mới bắt đầu tính đến việc chọn chỗ định cư.

Dân số: 63.332 người

*

28. Dân tộc Giáy

Người Giáy sinh sống chủ yếu ở các tỉnh thành thuộc Tây Bắc Việt Nam, họ ở trong những ngôi nhà sàn và tận dụng những vùng thung lũng cao để làm ruộng bậc thang. Người dân tộc này cũng giống như nhóm các dân tộc Lào, Tày, Thái, Lự, Sán Chay, Bố Y,.. họ cũng có quan niệm chung về tính liên kết giữa con người với các vị thần thánh và vũ trụ. Tuy nhiên mỗi dân tộc lại thờ cúng các vị thần linh không giống nhau.

Dân số: 67.858 người

*

29. Dân tộc Mạ

Người Mạ hiện đang sinh sống nhiều ở các khu vực Lâm Đồng, Đồng Nai với những nghề chính là làm nương, trồng lúa, trồng các loại cây bông, thuốc lá, bầu, bí, chăn nuôi gia súc gia cầm, rèn sắt,.. Nghề dệt lụa được biết đến như một ngành nghề thủ công nổi tiếng của người dân tộc Mạ.

Tuy là dân tộc tuân theo chế độ phụ hệ nhưng người dân tộc Mạ vẫn có tục sau khi kết hôn thì chú rể sẽ sang sinh sống ở nhà vợ đến khi nào đã nộp đủ đồ sính lễ thì mới được đưa hẳn cô dâu về ở hẳn nhà mình.

Dân số: 50.322 người

*

30. Dân tộc Hà Nhì

Người dân tộc Hà Nhì cư trú chính tại khu vực các tỉnh Lai Châu, Lào Cai gần với biên giới giáp Trung Quốc. Người Hà Nhì có một hệ thống ruộng bậc thang rất nổi tiếng. Đây là người dân tộc có nhận thức và trình độ học vấn tốt hơn rất nhiều so với nhiều dân tộc khác.

Trong năm người Hà Nhìn có rất nhiều lễ hội lớn nổi tiếng như là ngày Tết truyền thống của người Hà Nhì – Hồ Sự Chà. Đây là ngày tết sẽ được tổ chức sau khi mùa màng đã xong, thường tầm tháng 11 dương lịch hàng năm. Họ cũng có nhiều lễ hội đặc biệt mang đậm nét văn hóa Hà Nhì như là lễ Ga Tho Tho, lễ gạ ma thú, lễ khu già già,..

Dân số: 25.539 người

*

31. Dân tộc Chơ Ro

Người đồng bào Chơ Ro là một trong số những dân tộc đã sinh sống rất lâu đời tại khu vực tỉnh Đồng Nai nước ta. Ngoài ra người Chơ Ro còn sinh sống đông tại nhiều tỉnh thành khác như Bình Phước, Bình Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, …

Trong niềm tin của người Chơ Ro thì vị thận tối cao mang tên là thần Yang N’du, đây là vị thần sáng tạo nên thế giới. Ngoài ra còn có nhiều vị thần khác như thần Yang Koi, Yang Bri, Tang Dah,.. Người Chơ Ro trước kia không có chữ viết nên hầu hết những câu chuyện dân gian họ sử dụng phương thức kể chuyện để truyền từ đời này sang đời khác. Nổi bật nhất là câu chuyện về sự ra đời của loài người hay tổ tiên của người Chơ Ro,..

Dân số: 29.520 người

*

32. Dân tộc Xinh Mun

Người dân tộc Xinh Mun là cái tên tiếp theo mà chúng tôi muốn giới thiệu đến bạn trong bài viết hôm nay. Đây là người dân tộc sinh sống chủ yếu ở các tỉnh thuộc miền Bắc nước ta như Sơn La, Lai Châu. Trước kia họ là những người sống theo lối du canh du cư không cố định tại một chỗ. Tuy nhiên dần về sau thì đã dần ổn định và quây quần bên nhau. Hiện người Xinh Mun vẫn giữ được tục nhuộm răng, ăn trầu, uống rượu cần, ăn các loại gia vị cay nồng.

Dân số: 29.503 người

*

33. Dân tộc Co

Đồng bào dân tộc người Co hiện sinh sống chủ yếu với nghề làm nương rẫy. Một trong số những cây mang đến nguồn thu nhập ổn định cho người Co đó chính là nhờ vào cây quế. Các vị bô lão trong cộng đồng người dân tộc Co rất có tiếng nói, là người được kính trọng. Lễ cưới của người Co khá đơn giản, không tốn kém nhiều. Trước kia họ chỉ kết hôn với những người dùng dân tộc mình nhưng đến ngày nay đã kết hôn với nhiều dân tộc khác, đã có rất nhiều nàng dâu – chàng rể là người dân tộc Kinh, Xơ đăng, Hrê,..

Dân số: 40.442 người

*

34. Dân tộc Chu Ru

Trong bài viết tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam hôm nay không thể thiếu dân tộc Chu Ru. Ngoài tên gọi Chu Ru thì mọi người còn biết đến với những cái tên khác như Chơ Ru, Choru, Kru,.. Họ sinh sống chủ yếu ở các tỉnh Lâm Đồng, Ninh Thuận,.. Người Chu Ru bên cạnh sử dụng các loại cây thuốc trong rừng để chữa trị bệnh thì họ vẫn còn sử dụng bùa chú, cúng bái để trị bệnh.

Dân số: 23.242 người

*

35. Dân tộc La Chí

Đồng bào người dân tộc La Chí sống chủ yếu ở khu vực các tỉnh Hà Giang, Lào Cao. Họ sống quây quần bên nhau trong những ngôi nhà sàn. Quần thể nhà sàn của người La Chí sẽ gồm có nhà sàn, nhà trệt, nhà kho. Tuy chỉ có một không gia khá nhỏ nhưng lại có lối kiến trúc rất độc đáo. Thường thì người La Chí sẽ sinh sống nhiều thế hệ trong cùng một ngôi nhà.

Dân số: 15.126 người

*

36. Dân tộc Kháng

Người Kháng rất nổi tiếng với những ngôi nhà sàn được thiết kế đặc biệt, ngôi nhà sàn sẽ có 2 mái và 3 gian. Phần mái nhà sẽ có dạng mu rùa, có 2 cửa ra vào và 2 cửa sổ ở 2 đầu. Mỗi nhà sẽ có 2 gian bếp, 1 sử dụng nấu các đồ ăn hàng ngày cho gia đình còn 1 được dùng vào những ngày lễ lộc để nấu đồ cúng tế.

Dân số: 16.180 người

*

37. Dân tộc Lào

Người đồng bào Lào là một trong những dân tộc thiểu số hiện đang sinh sống tại khu vực các tỉnh Điện Biên, Sơ La, Lào Cai nước ta. Họ biết sử dụng các kỹ thuật canh tác, thủy lợi vào làm nông nghiệp trồng lúa và còn biết làm nhiều ngành nghề khác như rèn, gốm, dệt, làm đồ bạc,..

Trong văn hóa của người Lào vẫn sẽ có có một người trong làng giỏi chữ để thực hiện công việc ghi chép những câu truyện cổ, dân ca của người Lào để có thể lưu truyền sang nhiều thế hệ sau, không lo mai một.

Dân số: 17.532 người

*

38. Dân tộc Phù Lá

Người Phù Lá sống nhiều nhất ở tại tỉnh Lào Cai, họ tuy có đời sống thiếu thốn nhiều về vật chất nhưng lại có một đời sống tinh thần cực kỳ phong phú. Tất cả thể hiện rõ nhất ở những ca khúc dân gian mang âm hưởng núi rừng của người Phù Lá. Họ truyền tải thông qua những câu hát là các câu chuyện về rừng, núi, về dân tộc mình hay những thửa ruộng bậc thang,..

Dân số: 12.471 người

*

39. Dân tộc La Ha

Dân tộc La Ha nằm trong số 16 dân tộc ít người của nước ta, họ sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, nuôi gia súc gia cầm để cải thiện đời sống. Khi các chàng trai La Ha muốn tỏ tình với các cô gái mình yêu sẽ mang các nhạc cụ như sáo, nhị để đi đến nhà cô gái. Chàng sẽ dùng lời ca của mình để bày tỏ tình cảm cho người mình yêu.

Nếu như sau khi dạm hỏi cưới nhưng nhà gái không mang trả lại sính lễ cho bà mối thì nhà trai sẽ bắt đầu tiến hành lễ xin ở rể trong thời gian từ 4 – 8 năm sau đó thì lễ cưới sẽ được tổ chức.

Dân số: 10.157 người

*

40. Dân tộc La Hủ

Người La Hủ được gọi bằng nhiều cái tên khác như là dân tộc Cò Xung, Xá Lá Vàng, Khù Sung, Khả Quy,.. Họ sinh sống đông đảo ở vùng Thái Nguyên, Lai Châu. Trong hôn nhân của người La Hủ khá thoáng, họ cho các cặp đôi tự do lựa chọn. Tuy nhiên sau khi kết hôn thì chú rể sẽ đến ở gần nhà vợ trong khoảng từ 2 – 3 năm, sau đó mới được đưa vợ về ở nhà mình.

Dân số: 12.113 người

*

41. Dân tộc Pà Thẻn

Người Pà Thẻn nổi tiếng với nghề trồng lúa nước, làm nương và trồng cây chè Shan Tuyết. Người dân tộc Pà Thẻn vẫn có tục lệ ở rể tạm thời, những gia đình không có con trai thì sẽ có thể để cho chàng rể về ở hẳn nhà mình.

Dân số: 8.248 người

*

42. Dân tộc Chứt

Người Chứt sống tập trung tại các tỉnh như Quảng Bình, Đak Lak, Hà Tĩnh, Lâm Đồng,.. Họ khá nhút nhát, là những người chuyên sinh sống theo lối du canh du cư. Là dân tộc rất tin vào các vị thần, vị thần tối cao trong tín ngưỡng của người dân tộc Chứt chính là Thần Nông.

Về ẩm thực thì người Chứt có một món cơm rất nổi tiếng là cơm Pồi, là cơm nấu từ các loại ngô, sắn, nếp. Sauk hi các nguyên liệu đã được nấu chín sẽ được bỏ vào cối giã nhuyễn, sau đó nhồi kỹ và cho vào các ống tre, nghè hông mang đi nướng.

Dân số: 7.513 người

*

43. Dân tộc Lô Lô

Là một dân tộc thiểu số ít người nhưng người Lô Lô lại có nhiều nét văn hóa mang giá trị truyền thống đã được gìn giữ nhiều đời. Họ sinh sống trong những ngôi nhà nằm dựa lung vào vách núi lớn hướng cửa về phía thung lũng, cánh đồng. Trong một ngôi nhà sẽ có 3 gian, gian giữa để thờ tổ tiên, thờ cúng, tiếp khách. Gian bên phải để ông bà, cha mẹ sinh sống và gian bên trái sẽ để các con ở. Gác của nhà sẽ dùng cho khách ngủ lại học để chứa thực phẩm khô trong nhà.

Dân số: 4.827 người

*

44. Dân tộc Lự

Người Lự nổi tiếng với ngành nghề dệt, ở mỗi nhà sẽ đều có vài ba khung cửi để dệt vải. Họ cũng là dân tộc tuân theo tín ngưỡng Phật giáo Nam tông. Mỗi năm cứ đến tháng 6 dương lịnh thì người Lự lại tổ chức lễ hội Songkran – là lễ hội lớn nhất để nhằm tôn thờ các vị Phật.

Trong hôn nhân thì chú rể người Lự sẽ phải ở rể nhà vợ trong 3 năm trước khi ra riêng. Họ sinh sống rất chung thủy với nhau, cộng đồng người Lự cũng có nhiều luật lệ nghiêm khắc về việc bỏ vợ, bỏ chồng.

Dân số: 6.757 người

*

45. Dân tộc Mảng

Người Mảng sinh sống đông đúc tại các vùng Nậm Nhùn, Lai Châu. Họ rất tin tưởng vào các yếu tố tâm linh, có rất nhiều tục lệ kiêng kị trong đời sống như con dâu sẽ không được vào phòng ngủ cha mẹ, người chết khi mang đi chôn sẽ không được đi cửa chính mà cần đi về phía cửa phụ,..Họ còn có tục lệ hất bùn, hất rượu, bôi nhọ nồi vào mặt nhau vào lễ cưới để cầu mong may mắn.

Dân số: 4.650 người

*

46. Dân tộc Bố Y

Người Bố Y là cái tên tiếp theo trong bài viết tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam. Đây là dân tộc sinh sống ở những nơi có núi cao, độ ẩm lớn nên nhà ở của họ cũng sử dụng nhiều vật liệu chắc chắn để xây dựng. Họ có tục lễ đám cưới khá độc đáo khi cô em gái của chàng rể sẽ là người đi đón dâu hộ. Khi nàng dâu về sẽ mang theo kéo, một con gà mái nhỏ để có thể thả gà vào rừng trên đường đi.

Dân số: 3.232 người

*

47. Dân tộc Cờ Lao

Người Cờ Lao sinh sống ở những khu vực núi đá, họ thường làm nương rẫy và thổ canh là chính. Những người sống ở các vùng núi đất sẽ chuyển sang sinh sống bằng nghề trồng ruộng bậc thang, làm gỗ, đan lát,.. Trong gia đình của người Cờ Lao nếu thiếu con trai thì chàng rể sẽ phải ở rể nhà vợ, và họ cũng được cha mẹ vợ chia tài sản cho.

Dân số: 4.003 người

*

48. Dân tộc Cống

Người Cống sinh sống bằng nghề làm rẫy, bắt cá, trồng bông,.. Trước kia họ chỉ kết hôn những người cùng tộc với nhau nhưng bây giờ đã có thể kết hôn cùng những người tộc khác. Sau khi làm lễ dạm hỏi thì chàng rể sẽ sang nhà vợ sinh sống, người con gái có chồng sẽ búi tóc lên trên đỉnh đầu. Đến khi cả 2 có con thì mới làm đám cưới.

Dân số: 2.729 người

*

49. Dân tộc Si La

Đồng Bào người Si La hiện sinh sống tại tỉnh Lai Châu, họ có tục kết hôn 1 vợ 1 chồng và không chấp nhận ly hôn, nhưng lại cho phép người góa phụ có thể kết hôn. Sau khi kết hôn thì cô dâu sẽ đến sống tại nhà chồng, với trường hợp chàng rể sang sống ở nhà vợ thì sẽ cần ở trong thời gian từ 1 – 8 năm.

Dân số: 909 người

*

50. Dân tộc Ngái

Người Ngái khá bình đẳng với nhau trong hôn nhân. Trước kia họ sẽ phải làm lễ cưới 2 lần là lễ thành hôn và lễ nhập phòng. Người cậu trong nhà có vai trò rất quan trọng khi giống như một người cha thứ 2, họ là người giúp gia đình đặt tên cho cháu ngoại khi cháu sinh con.

Dân số: 1.649 người

*

51. Dân tộc Pu Péo

Người dân tộc Pu Péo sinh sống chủ yếu ở khu vực cao nguyên Đồng Văn, Hà Giang. Họ làm ruộng bậc thang, trồng các loại cây như mạch ba góc, đậu, ngô,.. Như những dân tộc khác thì người Pu Péo cũng có tín ngưỡng thờ phụng đa Thần. Họ cũng có tổ chức lễ hội thờ thần Rừng nhưng lại mang nhiều nét đặc trưng riêng không giống với bất kỳ dân tộc nào khác

Dân số: 903 người

*

52. Dân tộc Rơ Măm

Người dân tộc Rơ Măm sống nhiều thế hệ chung trong một gia đình, tầm từ 10 – 20 người. Họ có tục tổ chức lễ cưới gồm có 2 bước là ăn hỏi và làm lễ cưới. Đặc biệt sau khi mới cưới xong thì các cặp đôi có thể bỏ nhau nhưng một khi đã sống chung thì thường sẽ chung thủy, không bỏ nhau nữa. Hiện người Rơ Măm vẫn còn giữ tục ăn bốc, món ăn ưa thích của họ chính là cơm nếp đốt trong ống tre ăn cùng canh và muối ớt

Dân số: 639 người

*

53. Dân tộc Ơ Đu

Người Ơ Đu trước giờ đã có tục không kết hôn những người trong cùng tộc với nhau. Họ cũng có tục ở rể và sau một thời gian sinh sống thì có thể đưa vợ về lại nhà mình. Người Ơ Đu có tục sinh ngồi và đứa trẻ sau khi sinh ra sẽ được tính tuổi từ ngày nghe tiếng sấm đầu tiên trong năm.

Dân số: 428 người

*

54. Dân tộc Brâu

Cái tên cuối cùng trong danh sách tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam đó là người Brâu. Họ rất quan trọng lễ cúng nhà mới, đây được biết như một dịp trọng đại để cả làng có thể đến chung vui cùng gia đình.

Dân số: 525 người

*

Kết luận

Hi vọng thông qua bài viết tổng hợp danh sách tất cả tên và hình ảnh 54 dân tộc Việt Nam mà chúng tôi mang đến hôm nay đã giúp bạn hiểu hơn về các dân tộc anh em của nước ta từ dân số, vị trí địa lý, phong tục, tập quán hay những trang phục đặc trưng,.. Thường xuyên theo dõi nhiều thông tin thú vị khác trên trang Stardaily bạn nhé!

Với tài năng, tâm huyết bảo tồn và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, các nghệ nhân, nghệ sĩ, diễn viên tham gia Liên hoan Diễn xướng dân gian văn hóa các dân tộc khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên lần III năm 2022 đã để lại ấn tượng sâu sắc với các màn trình diễn rước biểu tượng vật thiêng; diễn các tích trò trong sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, lễ hội; hát các loại hình dân ca, dân vũ, trình diễn trang phục dân tộc, nhạc cụ dân tộc truyền thống, cồng chiêng Tây Nguyên đa sắc màu các dân tộc Việt Nam.

Đại diễn tấu cồng chiêng “Tiếng vọng đại ngàn”.

Các đoàn giới thiệu các nét đặc sắc của dân tộc.

Trình diễn các trang phục.

Các nghệ nhân giới thiệu và biểu diễn nhạc cụ dân tộc.

Các nghệ nhân thi diễn tích trò văn hóa các dân tộc.

Các nghệ nhân hát dân ca, dân vũ.

Xem thêm: Full Cách Tăng Điểm Ma Nhẫn Võ Lâm 1, Cách Tăng Điểm Cho Thiên Nhẫn Đao Võ Lâm 1

Các nghệ nhân Kon Tum tham gia thi biểu diễn cồng chiêng hòa tấu nhạc cụ dân tộc.

Văn Phương


*
*
*
*

Các tin khác


*

Tin Mới Nhất


Chùm ảnh



Kon Tum qua ảnh


Bla 1.jpg" alt="*">